image banner
Truyền thống lịch sử Đảng bộ huyện Lang Chánh tỉnh Thanh Hóa: (Phần 7)
ĐẢNG BỘ HUYỆN LANG CHÁNH LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1996 - 2005)

I. LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1996 - 2000)

Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhất là sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng (6 - 1991), nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong bối cảnh đó, từ ngày 28 - 6 đến ngày 01 - 7 - 1996, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta nhận thức rõ những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới, những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, chỉ ra những thời cơ và thách thức lớn. Trên cơ sở phát huy những thành tựu đạt được của 10 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị của Đảng tại Đại hội xác định mục tiêu đến năm 2020 là: “Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, phấn đấu đến năm 2020 “đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”, có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về phương hướng, nhiệm vụ những năm 1996 - 2000, Đại hội nhấn mạnh: “…đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong   Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao vào đầu thế kỷ sau” .

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng “Có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta”. Thành công của Đại hội VIII với chủ trương đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã tạo ra một không khí phấn khởi mới trong nhân dân cả nước nói chung và huyện Lang Chánh nói riêng.

Đối với Thanh Hóa, sau 10 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân đẩy lùi khó khăn, thách thức, tạo ra những thành tựu to lớn: đã xác lập được nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ - thương mại, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP. Cơ cấu kinh tế vùng được hình thành, phát triển theo định hướng phát huy lợi thế của từng vùng. Các hoạt động văn hoá - xã hội được chăm lo và gặt hái được nhiều thành quả quan trọng, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được tăng cường, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đảng bộ và hệ thống chính trị được củng cố, khối đại đoàn kết các dân tộc trong tỉnh được tăng cường, tình hình chính trị - xã hội ổn định, niềm tin của nhân dân đối với hệ thống chính trị được nâng lên, tạo đà cho sự nghiệp đổi mới đi vào chiều sâu.

Thành tựu đó đã được Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIV (từ ngày 7 đến ngày 10 - 5 - 1996) khẳng định, đồng thời, cũng tại Đại hội Đảng bộ tỉnh nhấn mạnh để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đi vào chiều sâu, toàn Đảng bộ và nhân dân phải ra sức: "Phát huy thành tựu đạt được, tranh thủ thời cơ thuận lợi, khắc phục khó khăn, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN, triệt để khai thác và sử dụng tốt các nguồn lực để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết những vấn đề xã hội và quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, nâng cao một bước đời sống các tầng lớp nhân dân, chuẩn bị tích cực các tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triển cao hơn sau năm 2000".

Trên cơ sở những thành tựu đạt được và những bài học kinh nghiệm được rút ra sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng đã đề ra đường lối đưa đất nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với những điều kiện thuận lợi trong nước và quốc tế, đó là những tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân huyện Lang Chánh vững bước chuyển sang thời kỳ cách mạng mới.

1. Đại hội Đảng bộ huyện Lang Chánh lần thứ XVIII

Trong không khí phấn khởi, tin tưởng của các tầng lớp nhân dân vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, từ ngày 20 đến ngày 23 - 3 - 1996, Đảng bộ huyện Lang Chánh tổ chức Đại hội lần thứ XVIII, tham dự Đại hội có 120 đại biểu. Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII, Đại hội nhấn mạnh:  Kinh tế đã có những chuyển biến khá, lâm - nông nghiệp tăng trưởng ổn định, đất ruộng, đất rừng đã có chủ quản lý. Quan hệ sản xuất được mở rộng và hoàn thiện một bước, đời sống vật chất, tinh thần trong nhân dân được cải thiện từng bước và có tích lũy để xây dựng và phát triển kinh tế cho gia đình cũng như đóng góp cho xã hội; đã quan tâm, đầu tư cho lĩnh vực y tế, giáo dục. Do đó, tình trạng học 3 ca, bỏ học giữa cấp, giữa lớp, số người mù chữ đã giảm nhiều; từng bước xây dựng được nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng được phương án tác chiến và kế hoạch phòng thủ, quy chế hoạt động của công tác quân sự địa phương; công tác xây dựng Đảng, hoạt động của chính quyền và các tổ chức quần chúng đã có sự chuyển biến. Vai trò quản lý nhà nước được nâng lên, phong trào quần chúng hành động cách mạng được khơi dậy.

Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế: Tư tưởng, tập quán sản xuất tự cấp, tự túc chưa được khắc phục; sản xuất hàng hóa trên địa bàn huyện phát triển chậm, sản phẩm làm ra còn ít, chất lượng còn hạn chế, chưa phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Đường giao thông và các công trình thủy lợi chưa được đầu tư đúng mức để cải tạo và nâng cấp. Sinh hoạt văn hóa truyền thống của các dân tộc trong huyện chưa được phát huy, đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn; số hộ đói nghèo vẫn chiếm 30 - 35% dân số toàn huyện; công tác huấn luyện lực lượng dân quân tự vệ địa phương chưa thường xuyên; giáo dục thực hiện pháp luật chưa triệt để; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên có lúc còn buông lỏng, chưa nhạy bén. Công tác tổ chức, kiểm tra các tổ chức cơ sở đảng chưa thường xuyên…

Sau khi đánh giá về những thành công cũng như những hạn chế trong nhiệm kỳ 1991 - 1995, Đại hội đã phân tích, đánh giá nguyên nhân khách quan, chủ quan của những thành công và hạn chế để rút ra những kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ. Đại hội đề ra phương hướng chung:  Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tăng cường sự đoàn kết thống nhất, khai thác hợp lý tiềm năng thế mạnh của huyện; thực hiện hiệu quả đường lối đổi mới của Đảng và Đảng bộ tỉnh; tiếp tục khẳng định cơ cấu kinh tế của huyện là “Lâm - nông - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ”; tăng cường đầu tư khai thác có hiệu quả các tiềm năng của huyện, đổi mới cơ cấu sản xuất cây - con - mùa vụ; nâng cao hiệu quả của nền kinh tế để tạo tiền đề cho sự phát triển trong những năm đầu của thế kỷ XXI; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện.

Trên cơ sở phương hướng chung, Đại hội đề ra các mục cụ thể là: Tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng từ 8 - 10%; giá trị sản lượng khai thác và chế biến lâm sản tăng từ 10 - 15%; diện tích trồng rừng đến năm 2000 là 13.000 ha, khoanh nuôi 5.000 ha nứa, vầu phục vụ nguyên liệu giấy, phấn đấu đến năm 1998 cơ bản hoàn chỉnh công tác giao đất, giao rừng; sản lượng lương thực quy thóc đạt từ 11.500 tấn trở lên; giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tăng từ 10 - 15%/năm; thu nhập bình quân đầu người đạt 200 USD trở lên; phổ cập tiểu học vào năm 1996, phấn đấu đến năm 2000 xóa nạn mù chữ; đến năm 2000, giảm tỷ lệ sinh hàng năm xuống dưới 2%; mở rộng và nâng cấp các tuyến đường giao thông liên thôn, liên xã, từng bước thông tuyến đường đi xã Tam Văn, Lâm Phú; xây dựng, sửa chữa, nâng cấp đập chứa nước đảm bảo tưới tiêu và phục vụ sinh hoạt, xây dựng các trạm bơm điện ở Thị trấn, Quang Hiến, Tân Phúc; đẩy mạnh công tác giáo dục, y tế dự phòng; phấn đấu xóa hộ đói, giảm hộ nghèo xuống dưới 20%; phấn đấu có 60% cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh; 100% làng, bản trong huyện đều có đảng viên. Trong nhiệm kỳ, kết nạp từ 400 đảng viên trở lên.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XVIII gồm 37 đồng chí, đồng chí Phạm Văn Cảnh tiếp tục được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy; đồng chí Phạm Đăng Nhượng được bầu giữ chức Phó Bí thư trực; đồng chí Hà Đăng Thông giữ chức Phó Bí thư phụ trách chính quyền.

Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII thành công là điều kiện thuận lợi cơ bản để lãnh đạo nhân dân toàn huyện triển khai sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.

2. Quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII đã được các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân trong huyện quán triệt, triển khai sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực.

Trong phát triển kinh tế

Trong những năm 1996 - 2000, kinh tế huyện Lang Chánh có bước phát triển khá; sản xuất nông - lâm - tiểu thủ công nghiệp phát triển đồng bộ; lĩnh vực trồng trọt, phát triển chăn nuôi, trồng rừng được chú trọng; bước đầu đưa công nghiệp chế biến vào sản xuất; nhờ đó, đời sống nhân dân được cải thiện một bước.

Về sản xuất nông nghiệp:  Các cấp ủy đảng, chính quyền đã tích cực chỉ đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân thay đổi cơ cấu mùa vụ, cây con, đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất, đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, do vậy năng suất và tổng sản lượng cây trồng, vật nuôi đều tăng. Cụ thể: tổng diện tích gieo trồng hàng năm từ 4.827 ha (năm 1996) lên 4.851 ha (năm 1999); cây lúa nước năng suất tăng từ 25 tạ/vụ (năm 1996) lên 33,8 tạ/vụ (năm 2000), tăng hơn so với năm 1996 là 8,8 tạ/ha/vụ. Năm 1996, huyện chủ trương trợ giá lúa giống cho nông dân nên tỷ lệ giống mới du nhập vào một số địa bàn khá phong phú (CR203, X20, X21, C70…) và cho năng suất cao, bình quân từ 45 - 50 tạ/ha. Năm 1999, do thời tiết rét đậm và nắng hạn kéo dài, ảnh hưởng lớn đến cây trồng, toàn huyện có 600 ha diện tích lúa nước bị hạn, không cấy được lúa nước nên một số diện tích phải chuyển đổi sang trồng màu. Do đó, sản lượng lương thực năm 1999 chỉ đạt 11.556 tấn. Năm 2000, sản lượng lương thực đạt 12.931 tấn, tăng hơn so với năm 1996 là 11,8%, tốc độ tăng bình quân là 2,36%/năm; mức bình quân lương thực đạt 300 kg thóc/người/năm. Cây màu, cây công nghiệp được đầu tư phát triển; bước đầu đưa cây mía vào sản xuất, đem lại hiệu quả tốt, năm 1999 sản lượng cây mía đạt gần 5.000 tấn, cây mía ngày càng đóng vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo cho nhân dân… Giá trị sản lượng thu nhập ngành trồng trọt liên tục tăng, năm 1995 đạt 18.258 triệu đồng, đến năm 2000 tăng lên 24.427 triệu đồng. Đàn gia súc phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng ở các xã vùng cao như: Yên Khương, Yên Thắng, Lâm Phú, Trí Nang, Giao Thiện. Năm 2000, có 9.521 con trâu - tăng 8,7% so với năm 1995. Do làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, hạn chế được dịch bệnh, bước đầu đưa ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào phát triển chăn nuôi như đưa giống bò lai sind vào cải tạo đàn bò, giống lợn hướng nạc vào sản xuất. Vì thế, giá trị sản lượng năm 2000 đạt 6.135 triệu đồng, tăng 9,3% so với năm 1995 (bình quân hằng năm tăng 2,18%).

Trong sản xuất lâm nghiệp:  Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 90/CT-CP của Chính phủ, Pháp lệnh bảo vệ, chăm sóc tài nguyên. Năm 1996, Huyện ủy đã chỉ đạo tổ chức giao đất lâm nghiệp cho 4 xã (Tam Văn, Đồng Lương, Giao Thiện, Lâm Phú), với tổng diện tích là 11.000 ha; tổ chức trồng được 700 ha rừng tập trung (trong đó, ngoài dự án 620 ha, trong dự án 80 ha). Triển khai thực hiện Nghị định số 02/NĐ-CP của Chính phủ, từ cuối năm 1997 huyện đã hoàn thành kế hoạch giao đất lâm nghiệp đến các hộ nông dân với tổng diện tích 51.678,30 ha (trong đó, có 4.437 hộ gia đình nông dân nhận 25.022,44 ha; doanh nghiệp Nhà nước nhận 17.590,18 ha; các đơn vị, thành phần kinh tế khác nhận 9.065,7 ha). Do thực hiện giao đất lâm nghiệp đến hộ nông dân, nên việc trồng, chăm sóc, tra dặm, khoanh nuôi bảo vệ và quản lý khai thác có bước chuyển biến tốt. Nét nổi bật là mô hình vườn rừng, trại rừng từng bước được hình thành và phát triển. Do có sự chỉ đạo quyết liệt của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, toàn huyện đã tập trung quản lý, bảo vệ, khoanh nuôi được 14.716 ha rừng tự nhiên, mỗi năm trồng mới 200 - 250 ha rừng, 250 - 300 ngàn cây phân tán; 55% diện tích rừng, đất rừng được phục hồi và phát triển. Năm 1999, bình quân hằng năm khai thác khoảng 4.500m gỗ, một triệu cây luồng và hàng trăm ngàn cây nứa. Tổng giá trị thu nhập về lâm nghiệp năm 2000 đạt 16.720 triệu đồng. Trên địa bàn huyện, lần đầu tiên hình thành được cơ sở sản xuất liên doanh, chế biến sản phẩm từ cây luồng.

Sản xuất tiểu thủ công nghiệp:  Tập trung sản xuất vật liệu xây dựng, như: vôi, gạch, cát, sỏi… mở rộng các dịch vụ xay xát và chế biến thức ăn gia súc, đảm bảo thu nhập, ổn định đời sống cho lực lượng lao động nhàn rỗi. Sản xuất thủ công nghiệp phát triển đúng hướng, các lò rèn, lò gạch, lò vôi và sản xuất đồ mộc đều phát triển ổn định, đáp ứng được một phần nhu cầu của người tiêu dùng, từng bước tạo việc làm ổn định cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Năm 1995, giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ chỉ đạt 2.678 triệu đồng, năm 1996 đạt gần 3 tỷ đồng, thì đến năm 2000 đạt 3.260 triệu đồng (tăng 2,7% so với năm 1995), trung bình hàng năm tăng 2,4%.

Về xây dựng cơ bản:  Trong 5 năm, huyện đã tranh thủ các nguồn vốn dự án hỗ trợ của Nhà nước, động viên được sự tham gia đóng góp của nhân dân trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng phục vụ sản xuất; chủ động quy hoạch các trung tâm thị tứ, các tụ điểm trung tâm ở các xã Trí Nang, Giao Thiện…

Bằng nguồn vốn dự án điện lưới Quốc gia, huyện đã xây dựng được 26,7 km đường dây 35KV, 12 trạm biến thế; động viên nhân dân tham gia đóng góp đưa điện về các xã, bản xung quanh huyện lỵ phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân. Hoàn thành và đưa vào sử dụng 11 công trình thủy lợi đảm bảo việc chủ động tưới tiêu cho 233 ha lúa, với tổng vốn đầu tư là trên 4 tỷ đồng. Năm 1997, triển khai xây dựng đường điện xã Tân Phúc và Đồng Lương. Năm 1999, sửa chữa, nâng cấp tuyến đường từ Thị trấn đi Yên Khương, đảm bảo giao thông thông suốt các tuyến đường trong huyện. Bằng các nguồn vốn hỗ trợ, huyện ủy đã chỉ đạo xây dựng và hoàn thành tuyến đường cao thế 35KVA ở xã Giao An; xây dựng kiên cố trường tiểu học cụm xã Yên Khương - Yên Thắng, trường Tiểu học Thị trấn; xây dựng trụ sở làm việc xã Tân Phúc và Tam Văn; hoàn thành và đưa vào sử dụng trụ sở Bưu điện huyện và 2 trạm bưu điện văn hóa xã Quang Hiến và Tân Phúc.

Trong nhiệm kỳ, Huyện ủy đã huy động mọi nguồn lực xã hội đóng góp xây dựng 52 phòng học kiên cố, nhà nội trú trường cấp II - III; 6 trụ sở làm việc của ủy ban nhân dân xã; nâng cấp 10 trạm xá xã; xây dựng 3 nhà truyền thông dân số và các công trình, trụ sở làm việc của các cơ quan đóng trên địa bàn huyện với tổng số vốn đầu tư hàng năm trên 3 tỷ đồng, góp phần làm thay đổi đời sống, sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân trong huyện.

Về hoạt động tài chính, thương mại:  Năm 1995, thu ngân sách trên địa bàn đạt 76 triệu đồng, đến năm 2000 đạt 810 triệu đồng (tăng gần 11 lần so với năm 1995), bình quân hằng năm tăng 6,5%. Thu trợ cấp năm 1995 là 3.545 triệu đồng, năm 2000 là 6.513 triệu đồng (tăng gần gấp đôi so với năm 1995). Ngân hàng thường xuyên bám sát nhiệm vụ chính trị, phục vụ kịp thời và đáp ứng các nhu cầu hoạt động trên các lĩnh vực công tác, việc huy động nguồn vốn tín dụng phục vụ các nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân. Năm 1996, huy động nhân dân gửi tiết kiệm đạt 2.300 triệu đồng, cho vay 8.400 triệu đồng. Năm 1999, cho vay là 12.048 triệu đồng (trong đó, cho 3.120 lượt hộ vay xóa đói giảm nghèo với số tiền là 4.900 triệu đồng). Đến năm 2000, cho vay đạt 15.000 triệu đồng (trong đó, cho vay xóa đói giảm nghèo là 5.800 triệu đồng). Đồng thời với làm tốt công tác cho vay, Ngân hàng đã thực hiện hiệu quả việc thu hồi vốn và xử lý tốt nợ xấu, hạn chế đến mức thấp nhất nợ quá hạn.

Dịch vụ thương mại phát triển mở rộng, đa dạng hóa các hình thức khai thác nguồn hàng giao lưu buôn bán giữa các vùng trong huyện, góp phần ổn định giá cả thị trường, đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất và tiêu dùng, cung cấp đầy đủ, kịp thời về số lượng và chất lượng các mặt hàng chính sách cho nhân dân. Cùng với hệ thống thương nghiệp quốc doanh, còn có lực lượng tư thương cũng tham gia vận chuyển hàng hóa phục vụ nhân dân đến tận thôn, bản, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân sản xuất. Tuy nhiên, lực lượng này mới chỉ làm nhiệm vụ cung ứng hàng hóa, chưa vươn lên thu mua nông sản của nông dân. Do đó, giao lưu kinh tế giữa các vùng trong huyện còn khó khăn, chưa tạo được điều kiện để người dân cạnh tranh lành mạnh trong phát triển hàng hóa.

Về văn hóa - xã hội

Những năm 1996 - 2000, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII các hoạt động văn hóa - xã hội tiếp tục được quan tâm, đầu tư phát triển; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được xây dựng góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước.

Lĩnh vực giáo dục - đào tạo:  Triển khai thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về giáo dục, tăng cường đổi mới phương pháp dạy và học trong các nhà trường gắn với đảm bảo chất lượng của học sinh với trách nhiệm của giáo viên. Trong nhiệm kỳ, hệ thống trường học tiếp tục được mở rộng, số lượng học sinh đến trường, đến lớp ngày càng tăng. Năm học 1995 - 1996 có 27 trường, đến năm học 2000 - 2001 có 41 trường (tăng gấp 1,5 lần). Nét mới là năm 1996 toàn huyện đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ; đặc biệt là trường Tiểu học Thị trấn được công nhận trường chuẩn quốc gia. Đến năm 2000, toàn huyện đã xây dựng được 129/472 phòng học bằng ngói kiên cố, khắc phục tình trạng thiếu trường lớp, không còn tình trạng học 3 ca.

Hoạt động y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân  được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm và tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư mua sắm trang thiết bị khám chữa bệnh. Do làm tốt công tác tuyên truyền, tiêm chủng mở rộng, vệ sinh môi trường, đến năm 1997 toàn huyện đã thanh toán được bệnh phong, không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; đồng thời đưa vào sử dụng khu nhà điều trị Bệnh viện Đa khoa huyện và Trung tâm Y tế huyện; phối hợp với chương trình Quỹ Cứu trợ Nhi đồng Mỹ triển khai chương trình đỡ đẻ sạch tại nhà ở xã Trí Nang và xã Lâm Phú. Nét nổi bật về y tế đối với một huyện miền núi còn khó khăn như Lang Chánh là đến cuối năm 2000, đã có 68/98 bản có cán bộ y tế. Trong nhiệm kỳ, mạng lưới truyền thông dân số từ huyện đến cơ sở hoạt động tích cực, góp phần giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ 2,38% (năm 1996), xuống còn 1,7% (năm 2000). Công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em luôn được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm như tiêm chủng mở rộng, uống Vitamin A miễn phí,… Năm 1997, toàn huyện đã có 5 xã (Tân Phúc, Quang Hiến, Đồng Lương, Giao An và Trí Nang) thực hiện chương trình chống suy dinh dưỡng trẻ em do Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em tỉnh hỗ trợ kinh phí.

Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao  tiếp tục phát triển sâu rộng. Các phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở thường xuyên được duy trì. Các cấp ủy Đảng, chính quyền đã hướng dẫn chỉ đạo ngành văn hóa bám sát định hướng của Đảng về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Do đó, ngành đã tích cực tuyên truyền, vận động, tổ chức cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện các tiêu chí trong xây dựng nếp sống văn minh lành mạnh, gia đình văn hóa, làng văn hóa. Trong 5 năm (1996 - 2000), toàn huyện đã xây dựng được 24/98 làng văn hóa (trong đó có 5 làng được công nhận làng văn hóa cấp tỉnh). Phong trào văn nghệ, thể dục thể thao phát triển sâu rộng với nhiều hình thức phong phú đa dạng, phù hợp với nhiều đối tượng, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia luyện tập. Năm 2000, toàn huyện đã có trên 10.000 người tham gia “rèn luyện thân thể” theo gương Bác Hồ.

Trong nhiệm kỳ, hai trạm phát sóng truyền hình ở xã Yên Khương và xã Lâm Phú được xây dựng và đưa vào sử dụng. Do đó, công tác thông tin tuyên truyền được phối hợp đồng bộ, chất lượng, thời lượng tiếp sóng phát thanh - truyền hình, phát hành báo chín ngày càng được quan tâm sâu sắc, góp phần tuyên truyền các chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và của tỉnh, đặc biệt là của huyện đến với mọi tầng lớp cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện. Mạng lưới thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông tiếp tục phát triển, đáp ứng yêu cầu liên lạc của nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền kịp thời. Năm 1997, bưu điện huyện đã phát hành 130 ngàn tờ báo, tạp chí các loại của Trung ương và địa phương; tiếp nhận và vận chuyển kịp thời các loại công văn, giấy tờ phục vụ cho công tác điều hành, quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể. Từ năm 1996 đến năm 2000, toàn huyện đã được Nhà nước trợ cấp 87 tivi, 606 đài radio và trợ giá mua 1.094 đài radio cho đồng bào ở các xã vùng cao, vùng sâu. Riêng năm, 2000 có 2.900/8.315 hộ gia đình mua sắm tivi, trên 320 máy điện thoại..., góp phần nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho nhân dân các dân tộc trong huyện.

Các chính sách xã hội về nhân đạo, từ thiện, uống nước nhớ nguồn, xóa đói - giảm nghèo  được tiến hành sâu rộng, kịp thời, hiệu quả đối với thương binh, gia đình liệt sỹ, gia đình người có công với cách mạng, các đối tượng xã hội (trẻ mồ côi, người tàn tật, người neo đơn,…). Năm 1997, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã giải quyết chế độ ưu đãi cho 150 người có công, 179 trường hợp bị ảnh hưởng chất độc màu da cam; giải quyết kịp thời các chế độ trợ cấp cho các đối tượng hưởng chế độ 167, góp phần từng bước giải quyết khó khăn, vướng mắc, tạo được sự đảm bảo công bằng xã hội; xin cấp trên trợ cấp cứu đói 30 tấn gạo cho 1.308 lượt hộ gồm 6.133 lượt nhân khẩu trong huyện. Trong công tác xóa đói, giảm nghèo, ngày 20 - 6 - 1996, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban thành Nghị quyết số 02-NQ/HU về thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo. Trên cơ sở đó, Huyện ủy đã chỉ đạo thành lập các ban xóa đói, giảm nghèo từ huyện đến xã, thôn. Năm 1999, Huyện ủy đã chỉ đạo các ngành trong huyện lập dự án xóa đói giảm nghèo cho 7 xã, kinh phí do tổ chức CIDA - Canađa tài trợ. Nhờ đó, tỷ lệ đói nghèo giảm từ 31,5% năm 1998 xuống 25% vào năm 1999, đến năm 2000 chỉ còn lại 21,5%.

Về công tác quốc phòng - an ninh

Công tác quốc phòng - an ninh được thực hiện theo cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và công an làm tham mưu.

Về quốc phòng:  Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/BCT của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 19-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và các đề án, kế hoạch xây dựng phòng thủ, chiến đấu trong tình hình mới, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành Chỉ thị số 02-CT/HU về nhiệm vụ công tác quốc phòng an ninh, chỉ đạo tổ chức các cuộc diễn tập quân sự gắn kinh tế với quốc phòng và đảm bảo an ninh; các phương án, kế hoạch phòng thủ chiến đấu được bổ sung phù hợp với địa phương, góp phần nâng cao chất lượng và lực lượng dân quân tự vệ sẵn sàng chiến đấu. Thực hiện tốt chế độ trực sẵn sàng chiến đấu từ Ban Chỉ huy Quân sự huyện đến các đơn vị cơ động và xã đội; gắn nhiệm vụ diễn tập với xử lý việc buôn bán lâm sản trái pháp, chống mê tín dị đoan và truy quét tội phạm có hiệu quả thiết thực; tập trung xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ, duy trì tốt chế độ giao ban cụm, bổ sung các phương án sẵn sàng chiến đấu tại chỗ. Năm 1999, tổ chức tốt cuộc diễn tập 02 LC-99, huy động 2.300 người tham gia. Đặc biệt, đã tổ chức tốt lực lượng bảo vệ công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp, nhiệm kỳ 1999 - 2004. Công tác tuyển quân hàng năm đáp ứng chất lượng và số lượng; trong 5 năm (1996 - 2000), toàn huyện đã tiễn đưa 400 thanh niên lên đường nhập ngũ, tiếp nhận 167 quân nhân hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương, toàn huyện không có quân nhân đào ngũ.

Về an ninh:  Công tác an ninh chính trị thường xuyên được giữ vững, trên địa bàn huyện nhiều năm liên tục không có điểm nóng và các vụ việc phức tạp diễn ra. an ninh biên giới, an ninh nội địa ổn định, góp phần giữ vững mối quan hệ hợp tác với nhân dân địa phương của nước bạn Lào. Các đoàn khách nước ngoài ra, vào chủ yếu để chọn đối tác hoạt động kinh tế, làm công tác từ thiện và du lịch. Năm 1997, Công an huyện đã tổ chức tập huấn cho 120 đồng chí trưởng, phó công an xã, công an viên. Năm 1998, Huyện ủy tiếp tục chỉ đạo xây dựng và củng cố mạng lưới an ninh nhân dân, tạo mọi điều kiện thuận lợi giữ gìn an ninh trong thôn, bản; tích cực đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực và các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn huyện ngày càng vững chắc.

Quán triệt, triển khai Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; Quyết định số 138/1998/CT-TTg, ngày 31 - 7 - 1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Quốc gia phòng, chống tội phạm; các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy và UBND tỉnh; các đề án thực hiện chương trình Quốc gia về công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, về các vấn đề cấp bách trong nông thôn và thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, cơ quan. Năm 1999, Công an huyện đã phối hợp với các ngành thực hiện tốt công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu, làm bổ sung chứng minh thư nhân dân; duy trì thường xuyên lực lượng công an phụ trách địa bàn giúp cơ sở giữ vững trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin cho nhân dân yên tâm lao động, sản xuất. Công an huyện triển khai xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, giúp cơ sở giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn. Do làm tốt công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, trật tự công cộng và các vấn đề xã hội có bước tiến bộ rõ rệt. Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển sâu rộng, tạo ra thế ổn định, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc trong huyện yên tâm phát triển kinh tế - xã hội.

Về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng  cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân được sự quan tâm và chỉ đạo của Huyện ủy, góp phần nâng cao nhận thức cách mạng, nhận thức sâu sắc về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong thời kỳ phát triển đất nước theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cảnh giác với những âm mưu của các thế lực phản động nhằm xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, giữ gìn đạo đức, tác phong của người cán bộ, đảng viên, sống trong sạch, lành mạnh, bài trừ các tệ nạn xã hội và các hủ tục lạc hậu còn tồn tại trong các làng, bản. Công tác tuyên truyền tập trung chủ yếu vào nội dung cơ bản của các chỉ thị, nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII; chỉ thị, nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIV và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII. Năm 1999, Đảng bộ huyện Lang Chánh tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đảng bộ huyện (15/2/1949 - 15/2/1999). Sự kiện chính trị quan trọng này đã tạo ra nguồn động lực mới đối với toàn Đảng bộ, cán bộ đảng viên và nhân dân trong huyện.

Năm 1996, toàn huyện mở 5 lớp nghiên cứu, học tập Pháp lệnh và Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cho 225 đại biểu Hội đồng nhân huyện và xã. Năm 1998, có 100% Đảng bộ, chi bộ trực thuộc triển khai quán triệt và học tập Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/BCT, ngày 18 - 02 - 1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày 11/5/1998 của Chính phủ về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, phường, thị trấn… Trên cơ sở đó, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã chỉ đạo triển khai, quán triệt nội dung Quy chế Dân chủ ở xã phường, thị trấn đạt kết quả tốt; thí điểm việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở 2 đơn vị  là Thị trấn và xã Tân Phúc.

Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ đã quán triệt sâu sắc và xây dựng các chương trình hành động, triển khai thực hiện đồng bộ Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng xuống tận cơ sở. Sau một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), đến ngày 03 - 7 - 2000 có 31/31 đảng bộ, chi bộ trực thuộc, 137 chi bộ trực thuộc đảng bộ, tập thể lãnh đạo, cán bộ chủ chốt cơ sở hoàn thành việc kiểm điểm tập thể và cá nhân. Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình đã thể hiện tính thẳng thắn, nghiêm túc, dân chủ, cởi mở và đoàn kết của cán bộ, đảng viên; các đơn vị sau khi tiến hành kiểm điểm đã có nhiều chuyển biến rõ nét về nhận thức, trách nhiệm và chỉ đạo điều hành. Nhìn chung, công tác kiểm điểm của tập thể cấp ủy và cá nhân phát huy được ý thức, trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trong việc tự phê bình và phê bình. Kết quả, có 30/31 đảng bộ, chi bộ đạt loại tốt, 01 đơn vị đạt loại trung bình; về cá nhân, có 952 đồng chí đạt loại tốt, 317 đồng chí đạt loại khá. Thông qua kiểm điểm, có 16 cán bộ cấp ủy có thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính, đạo đức, tác phong, lối sống của người cán bộ, đảng viên (trong đó có 4 đồng chí phải kiểm điểm sâu sắc, 12 đồng chí kỷ luật bằng hình thức khiển trách).

Về công tác tổ chức cán bộ:  Do nhận thức tốt vấn đề “Cán bộ là gốc”, nên công tác tổ chức cán bộ luôn được Ban Chấp hành Đảng bộ huyện hết sức coi trọng, bố trí sắp xếp cán bộ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và năng lực công tác. Trong 4 năm (1996 - 1999), Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã bổ nhiệm 44 đồng chí đảng viên giữ chức vụ trưởng, phó ban, phòng cấp huyện; kịp thời bổ sung, thay thế, kiện toàn bộ máy tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng đủ sức lãnh đạo mọi hoạt động của đơn vị. Để cán bộ chủ chốt có chất lượng tốt, các cấp ủy đảng, chính quyền đã thường xuyên quan tâm, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo cho cán bộ, đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng; tổ chức tốt việc triển khai quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của các cấp; tăng cường công tác bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; tổ chức các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị phù hợp với điều kiện địa bàn huyện, góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, tạo nên sự thống nhất trong toàn Đảng bộ. Hàng năm, có trên 20 đồng chí được cử đi học các lớp về lý luận chính trị tại các trường Đảng của tỉnh và Trung ương; phối hợp với trường Chính trị tỉnh tổ chức mở 01 lớp Trung cấp lý luận chính trị, 01 lớp Trung cấp quản lý Nhà nước cho cán bộ chủ chốt xã, ngành trong huyện. Công tác phát triển đảng được Đảng bộ quan tâm, chỉ đạo sát sao, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên rõ rệt. Từ năm 1996 đến tháng 7 năm 2000, toàn huyện kết nạp được 529 quần chúng ưu tú vào Đảng; tất cả các thôn, bản, trường học không còn điểm trắng về đảng viên và tổ chức cơ sở đảng.

Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng  được tiến hành sâu rộng, nghiêm túc trong toàn Đảng bộ; cán bộ, đảng viên đã tích cực phát huy việc tự phê bình và phê bình, đấu tranh kiên quyết với các hiện tượng tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức. Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy đã có sự đổi mới về nội dung, phương pháp, tập trung kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Trong 5 năm (1996 - 2000), Ủy ban kiểm tra Huyện ủy đã tiến hành kiểm tra và xử lý 33 trường hợp vi phạm Điều lệ Đảng (trong đó: khai trừ 7 trường hợp, khiển trách 12 trường hợp, cảnh cáo 9 trường hợp, cách chức 5 trường hợp).

Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện  đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý, điều hành các hoạt động theo đúng pháp luật. Nội dung, chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng đáp ứng được nguyện vọng, ý chí của nhân dân trong huyện; thường xuyên duy trì các cuộc họp theo luật định, tổ chức nhiều cuộc tiếp xúc với cử tri, qua đó giải trình và giải đáp các ý kiến của cử tri nêu trong các kỳ họp; đã tổ chức chỉ đạo các cơ quan chức năng tham gia ý kiến góp ý xây dựng các bộ luật; tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân; tổ chức thành công cuộc bầu cử Quốc hội khóa X. Căn cứ vào Điều 47 Luật tổ chức HĐND và UBND các cấp và hướng dẫn của cấp trên, Ủy ban nhân dân huyện Lang Chánh được bầu cử 7 thành viên (trong đó có 6/7 thành viên là Hội đồng nhân dân huyện khóa XV), 3 thành viên là thường trực UBND (gồm Chủ tịch và 2 Phó Chủ tịch), các thành viên khác được cơ cấu ở Quân sự, Công an huyện, Phòng Tổ chức chính quyền và Thanh tra Nhà nước. Năm 1996, Hội đồng nhân dân huyện đã thông qua Nghị quyết về việc chia tách 2 xã Giao An và Tân Phúc. Năm 1998, HĐND huyện đã họp 2 kỳ thường xuyên và 1 kỳ họp bất thường. Nét mới là trong các kỳ họp đã có sự tổng hợp và trả lời các nội dung chất vấn của đại biểu, của các ban, của các ngành, đơn vị…

Ủy ban nhân dân huyện  đã tập trung tổ chức chỉ đạo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh theo tinh thần nghị quyết của cấp ủy và Hội đồng nhân dân huyện; chỉ đạo tốt công tác tiếp dân, công tác thanh tra, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; tiếp tục tiến hành cải cách hành chính, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng thành viên trong Ủy ban nhân dân; giữ vững mối quan hệ phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Do đó, đã tạo được sự thống nhất trong nhận thức, chỉ đạo và điều hành, quyền làm chủ của nhân dân được tôn trọng… Năm 1997, UBND huyện đã xây dựng phương án cải cách hành chính theo mô hình một cửa; tiếp nhận hồ sơ tại các phòng chức năng, sau đó chuyển lên văn phòng trình ký và trả lại văn bản về phòng chức năng, phòng chức năng trả lại hồ sơ cho tổ chức và công dân; đã góp phần giảm bớt phiền hà đối với tổ chức và công dân.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội  được kiện toàn, từng bước đổi mới về nội dung, hình thức hoạt động phù hợp với tình hình mới. Các phong trào thi đua yêu nước tiếp tục phát triển sâu rộng, đem lại hiệu quả chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội to lớn. Phong trào “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”, “Xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư”, “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế”, “Tuổi trẻ giữ nước, thanh niên lập nghiệp”,… được phát động sâu rộng trong toàn huyện. Thông qua các phong trào thi đua, các tổ chức chính trị - xã hội đã tập hợp, vận động, tổ chức giáo dục được đông đảo thành viên tích cực thi đua lao động sản xuất, học tập, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, làm giàu cho gia đình, cho quê hương, nâng cao ý thức đoàn kết, tính cộng đồng của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần tạo nên sức mạnh nội lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện Lang Chánh.

Trong nhiệm kỳ (1996 - 2000), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, đồng bào các dân tộc trong huyện đã tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP, tăng nhanh tỷ lệ lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ; tích cực đổi mới kết cấu hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế hàng hóa. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 5,4%, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.422.000 đồng/người/năm. Thường xuyên chăm lo phát triển văn hóa - xã hội, từng bước xóa bỏ chênh lệch về văn hóa giữa các vùng miền, từng bước xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước; tỷ lệ hộ nghèo đói và tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm nhanh. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, góp phần tạo động lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn huyện được tiến hành trong điều kiện thuận lợi, đặt nền tảng cho quá trình phát triển trong những năm tiếp theo.

Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm như: kinh tế phát triển chưa đồng đều, việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng còn chậm, trình độ thâm canh cây trồng, con nuôi chưa cao; chưa phát huy được hết khả năng, nguồn lực sẵn có trên địa bàn huyện như: nguồn lực lao động, đất đai, tài nguyên,…; sản xuất cầm chừng, các ngành, nghề sản xuất kinh doanh phát triển chậm; xây dựng cơ sở vật chất trường học còn chậm, chất lượng giáo dục chưa đồng đều. Các tệ nạn như tảo hôn, mê tín dị đoan… vẫn còn tiếp diễn, chưa bám sát được các tiêu chí trong xây dựng văn hóa cơ sở, xây dựng làng văn hóa; chất lượng y tế chưa đáp ứng yêu cầu, chưa thực sự quan tâm đến công tác xây dựng nhà tình nghĩa, nhà bia tưởng niệm; công tác xóa đói giảm nghèo, vệ sinh môi trường thực hiện chưa thường xuyên.  Nhận thức về công tác quốc phòng - an ninh ở một số ít cán bộ, đảng viên chưa ngang tầm với tình hình và nhiệm vụ mới; vẫn còn Đảng bộ, chi bộ yếu kém kéo dài; nội dung, chất lượng sinh hoạt ở các tổ chức cơ sở Đảng chậm đổi mới; công tác quản lý cán bộ chưa chặt chẽ… chất lượng chuẩn bị nội dung kỳ họp HĐND, giám sát của đại biểu HĐND ở một số nơi còn lúng túng trong việc cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của cấp ủy; thực hiện cải cách hành chính nhà nước chuyển biến chậm, còn nảy sinh sức ỳ trong công việc…

Để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương phát triển vững chắc, đòi hỏi Ban Chấp hành Đảng bộ huyện phải phát huy mạnh mẽ, hiệu quả hơn những thành tựu đạt được, khắc phục khó khăn, vận dụng sáng tạo, linh hoạt chỉ thị, nghị quyết của các cấp vào tình hình thực tiễn của địa phương; tiếp tục quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển của huyện trong giai đoạn tiếp theo.

https://langchanh.thanhhoa.gov.vn/portal/Photos/2024-11-06/7cd41dacf880d34dLICHI%20SI%20%C4%90F%20MOI.jpg

II. TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (2001 - 2005)

1. Đại hội Đảng bộ huyện Lang Chánh lần thứ XIX

Sau 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới và 5 năm tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn, đời sống vật chất và văn hóa của toàn dân không ngừng nâng cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, chính trị - xã hội ổn định, hệ thống chính trị không ngừng phát triển, trưởng thành và đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý về xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4 - 2001) khẳng định: Trong thời kỳ quá độ, Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài mô hình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN với đường lối phát triển là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.

Từ ngày 22 đến ngày 20 - 12 - 2005, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa tiến hành Đại hội lần thứ XV. Đại hội đã đánh giá: Trong nhiệm kỳ (1996 - 2000), Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang trong tỉnh đoàn kết, nỗ lực phấn đấu phát huy tiềm năng lợi thế, đẩy lùi khó khăn thách thức, hoàn thành cơ bản các mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra. Kinh tế phát triển với tốc độ khá, nổi bật là sản xuất lương thực, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực, các vùng kinh tế động lực, các vùng kinh tế tập trung, các khu công nghiệp hình thành đi vào hoạt động; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, năng lực sản xuất phát triển, văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện; chính trị xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh vững chắc. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt thành quả mới, quy chế dân chủ cơ sở được triển khai thực hiện nghiêm túc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân được tăng cường...

Đại hội đề ra phương hướng chung: Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tăng tốc độ phát triển, phấn đấu đạt mức bình quân của cả nước trên tất cả các lĩnh vực, phát huy nội lực, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển…; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm tăng trưởng kinh tế tốc độ cao và bền vững… Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với giải quyết tốt những vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường và củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị. Xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh.

Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW ngày 22 tháng 5 năm 2000 của Bộ Chính trị về tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới đại hội lần thứ IX của Đảng. Từ ngày 27 đến ngày 29 - 11 - 2000, Đảng bộ huyện Lang Chánh tiến hành Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX, dự đại hội có 120 đại biểu. Đại hội đánh giá:  “Trong nhiệm kỳ (1996 - 2000), kinh tế huyện phát triển rõ nét, vấn đề lương thực tương đối ổn định, chăn nuôi, nghề rừng, thủ công nghiệp, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật đều phát triển… góp phần nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân. Văn hóa - xã hội phát triển, chất lượng giáo dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao ngày một nâng lên; thực hiện tốt các chính sách đền ơn đáp nghĩa. An ninh chính trị ổn định, trật tự xã hội được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng được củng cố, tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc”. Tuy nhiên,“vẫn chưa khai thác hết tiền năng, thế mạnh của huyện để phát triển một cách toàn diện, đồng bộ; cơ cấu cây trồng chưa hợp lý, mới chỉ chú trọng cây lượng thực, chưa phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, cây lâu năm có tiềm năng lớn. Nghề rừng chưa được chú ý phát triển, tốc độ trồng rừng thấp, diện tích đất trống đồi núi trọc còn lớn; lúng túng trong việc chỉ đạo điều hành xây dựng kinh tế đối với các xã vùng cao, các bản vùng sâu,…; nhận thức về công tác quốc phòng - an ninh ở một số ít cán bộ, đảng viên chưa ngang tầm với tình hình nhiệm vụ, việc đấu tranh phòng - chống các loại tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật hiệu quả còn thấp; chưa có các nghị quyết chuyên đề phát triển kinh tế - xã hội; chất lượng giáo dục chưa đều, y tế cơ sở còn hạn chế, các hoạt động xã hội, từ thiện, nhân đạo chưa thường xuyên. Chưa phát huy sức mạnh của toàn dân chống các hiện tượng tiêu cực xã hội, chất lượng hoạt động của đoàn thể quần chúng chưa cao…”.

Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2001 - 2005:  Tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh theo cơ cấu kinh tế đã được xác định rõ ở các kỳ Đại hội trước là: Lâm - Nông - Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; đoàn kết thống nhất trong Đảng và cán bộ nhân dân các dân tộc trong huyện; phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư xây dựng các chương trình dự án, tạo sự tăng trưởng kinh tế với phương châm: tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực, trồng và bảo vệ rừng hiện có, phát triển ngành nghề, hình thành vùng cây con, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống nhân dân; thường xuyên giữ vững an ninh biên giới, an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, đẩy lùi tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện. Thực hiện tốt các chính sách xã hội và đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục, thể dục thể thao. Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân. Củng cố hệ thống chính trị thực sự trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng .

Đại hội đã xác định 19 mục tiêu chủ yếu cần phải thực hiện trong nhiệm kỳ: Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 6,5% - 7,0%; thu nhập bình quân đạt trên 3,5 triệu đồng/người/năm; sản lượng lương thực đạt trên 10.000 tấn và sản lượng cây lấy củ có bột 10.500 tấn; bình quân đầu người đạt 230 kg lương thực và 100 kg củ có bột quy khô; bảo vệ và phát triển được vốn rừng, đảm bảo độ tán che của rừng đạt trên 65%; tổng giá trị sản phẩm đến năm 2005 đạt trên 150 tỷ đồng; giá trị sản phẩm và cơ cấu đến năm 2005 là: Nông - lâm nghiệp đạt 58,6 tỷ; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 33 tỷ; dịch vụ thương mại đạt 46 tỷ; tỷ lệ dân số được xem truyền hình là 85%; phấn đấu có 9/11 xã, thị trấn có điện lưới đến trung tâm phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân; 100% xã được lắp điện thoại đạt mức bình quân 1 máy điện thoại/100 dân; tỷ lệ tăng dân số dưới 1,5%; xóa cơ bản hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 14%; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; hằng năm khai trương, xây dựng 5 - 7 làng, bản và cơ quan văn hóa. Trong nhiệm kỳ có từ 5 làng trở lên được công nhận làng văn hóa cấp tỉnh và 2 xã có 100% làng, bản được khai trương xây dựng làng văn hóa; 70% dân số được sử dụng nguồn nước sạch; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống dưới 30%; 100% cơ sở an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu; phấn đấu có 70% tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh; 100% làng, bản và trường học có chi bộ Đảng; trong nhiệm kỳ, kết nạp được trên 500 quần chúng ưu tú vào Đảng.

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu cụ thể nêu trên, Đại hội đã đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp như sau:

Về kinh tế:  Tiếp tục phát huy nội lực, khai thác hợp lý thế mạnh đất đai, tài nguyên lao động, đẩy mạnh phát triển sản xuất lâm - nông - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ một cách toàn diện, ổn định vững chắc theo hướng thâm canh, chuyên canh tăng năng suất cây trồng, con nuôi; tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống nhân nhân. Thực hiện có hiệu quả mục tiêu, chương trình các dự án phát triển kinh tế - xã hội; làm tốt công tác thu thuế; huy động các nguồn vốn trong nhân dân dân, sử dụng các nguồn vốn đầu tư tín dụng ngân hàng; khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, vườn trại, xây dựng được các mô hình kinh tế để gắn đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, ứng dụng khoa học kỹ thuật và thực hiện đồng bộ việc chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho nông dân.

Về văn hóa - xã hội:  Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác giáo dục đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII). Thực hiện nghiêm túc Luật Giáo dục; làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; thực hiện tốt các chính sách xã hội, đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo từ thiện, bảo hiểm xã hội.

Về quốc phòng - an ninh:  Xây dựng phương án phòng thủ, kế hoạch tác chiến, phát huy được sức mạnh, hoạt động của cụm tuyến an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu, giữ vững an ninh biên giới, an ninh nội địa, tạo thế ổn định, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế; thường xuyên giữ vững được tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo thế trận an ninh nhân dân vững mạnh.

Về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:  Nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của bộ máy Nhà nước, xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch vững mạnh; thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng; phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị; đổi mới phương pháp hoạt động, tăng cường phối hợp với các ngành, đơn vị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra của Đảng; đổi mới phong cách lãnh đạo và giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ XIX gồm 33 đồng chí. Đồng chí Phạm Văn Cảnh tiếp tục được bầu giữ chức Bí thư Huyện ủy; đồng chí Phạm Tiến Hiên được bầu làm Phó Bí thư Thường trực; đồng chí Lê Quang Tích được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền.

https://langchanh.thanhhoa.gov.vn/portal/Photos/2024-11-06/798953ecd01544dd635949397.jpg

2. Lãnh đạo thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX, các nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, nhiều chủ trương, giải pháp sắc bén được Huyện ủy lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh và công tác xây dựng Đảng.

Về phát triển kinh tế

Trong 5 năm (2001 - 2005), kinh tế huyện Lang Chánh có bước phát triển nhanh và vững chắc, toàn diện trong các ngành, lĩnh vực, cơ sở hạ tầng được nâng lên một bước, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể.

Trong sản xuất nông nghiệp:  Phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi. Năm 2001, tổng diện tích gieo trồng đạt 4.518,1 ha; trong đó, diện tích cây lúa là 2.436,7 ha (năng suất bình quân 37,95 tạ/ha, riêng lúa lai đạt 55 - 60 tạ/ha); cây ngô đạt 227,1 ha (năng suất 28,1 tạ/ha, sản lượng 627,5 tấn); cây sắn đạt 916 ha (năng suất 97 tạ/ha, sản lượng 8.885 tấn); cây khoai lang đạt 34,1 ha (năng suất 38,85 tạ/ha, sản lượng 152,3 tấn); cây mía đạt 102,6 ha (năng suất đạt 40 - 45 tạ/ha); cây lạc đạt 50,2 ha (năng suất 8,4 tạ/ha, sản lượng 37,4 tấn); cây đậu tương đạt 38,1 ha (năng suất 7,3 tạ/ha, sản lượng 22,2 tấn). Nhờ vậy, bình quân lương thực đạt 253kg/người/năm. Chăn nuôi tiếp tục ổn định và phát triển toàn diện cả gia súc và gia cầm. Tổng đàn trâu có 9.669 con; tổng đàn lợn có 13.934. Riêng đàn bò giảm mạnh (đạt 50,96% kế hoạch), nguyên nhân là do diện tích đồng cỏ bị thu hẹp để tập trung phát triển kinh tế lâm nghiệp.

Năm 2002, gieo trồng được 4.923,9 ha, đạt 103% kế hoạch (tăng 9% so với cùng kỳ), tổng sản lượng lương thực đạt 10.451,5 tấn, đạt 99,1% kế hoạch (tăng 3,4% so với cùng kỳ), năng suất lúa bình quân đạt 39 tạ/ha. Việc trồng các loại cây lấy củ có bột, cây công nghiệp và rau, đậu các loại mặc dù quy mô nhỏ, sản suất phân tán, nhưng đã có sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phần lớn phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại chỗ của nhân dân. Năm 2004, do thời tiết rét đậm và hạn hán kéo dài trong thời vụ cấy Chiêm Xuân đã làm cho hơn 100 ha diện tích gieo cấy bị hạn hán. Năm 2005, được sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy đảng, chính quyền và các ngành, đoàn thể,… nhân dân trong huyện đã kịp thời chuyển số diện tích cấy lúa bị hạn sang trồng ngô và mở rộng diện tích trồng ngô đồi, ngô bãi…. Nhờ có sự chỉ đạo, định hướng đúng đắn và kịp thời, diện tích gieo trồng năm 2005 tăng 12,3% so với kế hoạch (tăng 3,8% so với năm 2004); tổng đàn gia súc, gia cầm tiếp tục ổn định và phát triển cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là đối với chăn nuôi đại gia súc.

Về lâm nghiệp:  Toàn huyện có 82/91 thôn, bản đã xây dựng xong quy ước bảo vệ và phát triển rừng. Năm 2002, toàn huyện trồng được 165 ha rừng tập trung, tổng diện tích rừng được bảo vệ khoanh nuôi theo các chương trình, dự án là 16.423 ha (Lâm trường Lang Chánh là 5.696 ha, Lâm trường Luồng là 3.314 ha, Lâm trường sông Lò là 1.994 ha, dự án 661 là 1.000 ha…), tăng 0,5% so với cùng kỳ. Năm 2003, tổng diện tích rừng được bảo vệ khoanh nuôi là 16.460 ha (đạt 99,7% kế hoạch). Năm 2005, trồng được 200 ha rừng tập trung (cây nguyên liệu giấy) và 275.000 cây phân tán. Toàn huyện có trên 70 trang trại đủ quy mô sản xuất (trong đó, có 14 trang trại đã cho sản phẩm và giá trị thu nhập đạt từ 30 triệu đồng/năm trở lên).

Về sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp  tập trung chủ yếu ở các hộ thuộc thành phần kinh tế tư nhân, quy mô sản xuất nhỏ, chủ yếu sản xuất bằng phương tiện thủ công. Sản phẩm chủ yếu là vật liệu xây dựng, công cụ cầm tay, đồ dùng phục vụ sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của nhân dân. Năm 2002, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 3.520 triệu đồng. Năm 2004, tổng giá trị sản xuất đạt 6.451 triệu đồng (đạt 107,5% kế hoạch, bằng 112% so với cùng kỳ năm 2003). Năm 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 7.926 triệu đồng. Trên địa bàn huyện có 3 cơ sở sản xuất công nghiệp (xưởng chiếu, xưởng đũa và xưởng sản xuất bột giấy) tại Thị trấn và xã Đồng Lương có quy mô vừa và nhỏ hoạt động có hiệu quả, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động địa phương.

Về xây dựng cơ bản:  Nhờ tranh thủ các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, một phần huy động đóng góp của nhân dân, các công trình xây dựng trên địa bàn huyện đã được triển khai đúng tiến độ, nhiều công trình được khánh thành và đưa vào sử dụng như đường điện xã Giao An, hồ Chiềng Khạt, tuyến đường Thị trấn đi Yên Khương. Năm 2004, hoàn thành và đưa vào sử dụng trụ sở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện, trường THPT (giai đoạn 2), công trình nước sạch trường THCS Nội trú, 9 nhà văn hóa xã Yên Khương. Các công trình xây dựng phát huy được hiệu quả, đáp ứng yêu cầu trong phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của địa phương. Trong đó, vốn ngân sách Trung ương là 14.291 triệu đồng, vốn ngân sách tỉnh là 1.457 triệu đồng, vốn ngân sách huyện là 55,1 triệu đồng, còn lại là vốn ngân sách xã và nhân dân đóng góp.

Về giao thông - vận tải và bưu điện:  Được sự đầu tư của Nhà nước và huy động sức dân làm giao thông. Năm 2001, đã tu sửa các tuyến đường trong huyện, khởi công xây dựng lưới điện xã Quang Hiến. Năm 2002, huyện đã tích cực chỉ đạo ngành điện triển khai xây dựng đường hạ thế 0,4 KW xã Giao An, đường hạ thế xã Quang Hiến. Riêng lưới điện tại Thị trấn, huyện đã đầu tư kinh phí xây dựng thêm trạm biến áp số 3 và bàn giao cho ngành điện quản lý. Năm 2004, đã có 5/11 xã được cấp điện lưới quốc gia ổn định; hoàn thành công trình đường điện làng Trô Xá (xã Giao An) với tổng giá trị đầu tư là 379,3 triệu đồng. Đến tháng 12 năm 2004, toàn huyện đã có thêm 4 xã (Lâm Phú, Yên Khương, Yên Thắng, Tam Văn) thuộc vùng Chương trình 135 xây dựng xong đường dây điện lưới quốc gia. Năm 2002, huyện đã hỗ trợ kinh phí tu sửa, chống lầy các tuyến đường liên xã bị hư hỏng; sửa chữa tuyến đường từ xã Trí Nang đi xã Giao Thiện. Đến năm 2005, chỉ còn xã Lâm Phú chưa có đường ô tô đến trung tâm xã.

Năm 2004, toàn huyện có 5 điểm bưu điện văn hóa xã, số máy điện thoại lắp đặt mới là 50/70, nâng tổng số máy lên 562 máy (đạt 1,15 máy/100 dân). Đến cuối năm 2005, trên địa bàn huyện đã có 10/10 điểm bưu điện văn hóa xã, số máy điện thoại lắp đặt mới là 202/202 máy (đạt 100% kế hoạch), so với cùng kỳ tăng 1,5 lần, nâng tổng số máy lên 750 máy, đạt 1,7 máy/100 dân.

Về thương mại và dịch vụ:  Có nhiều cố gắng trong việc cung ứng phục vụ các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân, đặc biệt là các xã vùng cao, vùng sâu của huyện. Trong kinh doanh phục vụ, thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp tư nhân đã nắm bắt kịp thời nhu cầu tiêu dùng, thị hiếu của nhân dân, làm chủ thị trường, phục vụ tốt các mặt hàng chính sách, đúng vùng, đúng đối tượng; đã khai thác và cung ứng đầy đủ các mặt hàng phục vụ nhân dân, hàng hóa phong phú về chủng loại, đặc biệt là các mặt hàng chính sách đạt giá trị 1,6 tỷ đồng (chiếm 8,2% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ). Năm 2004, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 16.511 triệu đồng, bằng 108,2% kế hoạch (riêng thương nghiệp quốc doanh tổng giá trị bán ra là 6.887,196 triệu đồng đạt 98% kế hoạch). Năm 2005, giá cả hàng hóa tăng nhanh, như: lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, điện, xăng dầu, phân bón… làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân; một số nơi xuất hiện hàng giả, hàng kém chất lượng.

Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng : Việc thu, chi ngân sách địa phương được điều hành và quản lý chặt chẽ, đảm bảo các nhu cầu chi thường xuyên cho chế độ con người và giành một phần cho đầu tư phát triển. Năm 2001, tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 8.873 triệu đồng (đạt 108,9%), tổng chi ngân sách đạt 8.624 triệu đồng. Năm 2005, tổng thu là 40.300 triệu đồng đạt 137% kế hoạch, tổng chi là 39.092 triệu đồng đạt 133,7% kế hoạch. Hoạt động tín dụng có nhiều tiến bộ: ngân hàng đã tích cực, chủ động khai thác các nguồn vốn trong nhân dân, phục vụ kịp thời cho phát triển kinh tế ở địa phương. Năm 2003, dư nợ Ngân hàng Nông nghiệp là 31 tỷ đồng (tăng 7.259 triệu đồng so với cùng kỳ), dư nợ Ngân hàng Chính sách xã hội là 14.119 triệu đồng. Đến hết năm 2005, tổng nguồn huy động của Ngân hàng Nông nghiệp tại địa phương (không tính nguồn vốn kho bạc và bảo hiểm xã hội) là 7.362 triệu đồng; Ngân hàng Chính sách xã hội dư nợ là 22.589 triệu đồng.

Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội

Đảng bộ huyện Lang Chánh xác định lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa - xã hội góp phần quan trọng ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế phát triển, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Về giáo dục - đào tạo:  Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác giáo dục - đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII); tăng cường đổi mới về phương pháp dạy và học trong các nhà trường, gắn chất lượng học của học sinh với trách nhiệm của giáo viên. Do sự nỗ lực của ngành Giáo dục, chất lượng dạy và học trên địa bàn huyện ngày càng được nâng lên. Năm học 2001 - 2002, toàn huyện có 5 học sinh giỏi cấp tỉnh, 25 học sinh giỏi cấp huyện. Năm học 2002 - 2003, tổng số học sinh các cấp là 13.228 em. Năm 2002, Huyện ủy đã chỉ đạo đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, khắc phục được tình trạng thiếu giáo viên, từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy và học trong nhà trường. Tính đến tháng 12 năm 2004, toàn huyện có 11/11 xã, thị trấn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Đến năm 2005, huyện đã xây dựng được 3 trường chuẩn quốc gia; toàn huyện có 529 phòng học, trong đó có 444 phòng học kiên cố.

Về hoạt động y tế:  Thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về củng cố hệ thống mạng lưới y tế cơ sở, ngành Y tế đã từng bước được củng cố và tăng cường từ huyện xuống cơ sở, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Đến tháng 12 năm 2004, trên địa bàn huyện đã xây dựng được 2 trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia (Quang Hiến và Đồng Lương). Do làm tốt công tác tuyên truyền, nên tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm (từ 1,37% năm 2003 xuống 1,31% năm 2004); tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm từ 30,89% (năm 2003) xuống còn 29,37% (năm 2004); năm 2005 tiêm chủng mở rộng đạt tỷ lệ 96,7% bằng 100,5% so với cùng kỳ; tổ chức phát động phong trào vệ sinh phòng chống dịch bệnh mùa hè, sốt rét,… cho đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện. Do đó, không có dịch bệnh lớn xảy ra.

Về hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao : Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX đã xác định: Tiếp tục xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc bằng nhiều giải pháp thiết thực. Mọi hoạt động tuyên truyền kịp thời nhiệm vụ chính trị của Đảng, mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần nâng cao trình độ cho nhân dân và tham gia đấu tranh bài trừ các tập tục lạc hậu và các tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, thực hiện tốt quy ước trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Năm 2001, tổ chức khai trương 4 làng và 2 cơ quan văn hóa. Năm 2004, tổ chức khai trương 8/8 làng văn hóa (nâng tổng số làng văn hóa lên 56/154 đơn vị), có 4.573/8.832 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa. Năm 2005, tổ chức khai trương 10/10 làng, đơn vị văn hóa, duy trì tốt 95 đội văn nghệ quần chúng, 33 nhà văn hóa làng; ngành văn hóa thông tin - thể dục thể thao đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chuyển đổi mô hình hoạt động thành lập Trung tâm Văn hóa, Thể dục thể thao huyện. Các trạm thu - phát lại sóng truyền hình duy trì hoạt động thường xuyên, phục vụ cho 60% dân số trong huyện được xem truyền hình. Tiếp sóng cả 3 trạm đạt 5.212 giờ (bằng 102% kế hoạch), thực hiện 56 chương trình địa phương với 540 tin, bài.

Hoạt động thể dục thể thao có nhiều chuyển biến tích cực, diễn ra sôi động và rộng khắp. Toàn huyện có 10 câu lạc bộ cầu lông, 18 đội bóng chuyền, 12 đội bóng đá, 400 gia đình thể thao; 6.000 người tham gia luyện tập thể thao thường xuyên. Năm 2002, công tác xã hội hóa thể dục thể thao được hình thành ở các cơ sở, thể dục thể thao quần chúng ngày càng thu hút đông đảo người tham gia. Toàn huyện có 6.500 người tham gia tập luyện thể thao thường xuyên, 560 gia đình đạt chuẩn gia đình thể thao, 86/98 làng, bản có quy ước, hương ước. Năm 2003, có 7.000 lượt người tham gia luyện tập thường xuyên (đạt 100% kế hoạch), 660 gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao.

Về thực hiện các chính sách xã hội:  Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ chính sách của Đảng, Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Cụ thể: năm 2001, hoàn thành việc chi trả trợ cấp cho các đối tượng được tặng thưởng huân, huy chương theo Nghị định số 47/NĐ-CP của Chính phủ cho 977 người, với tổng số tiền là 1.029 triệu đồng. Bằng nguồn quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, đã xây dựng và trao tặng nhà tình nghĩa cho 01 gia đình thương binh nặng ở xã Trí Nang. Năm 2002, ngành Thương binh và Xã hội huyện đã thực hiện nghiêm túc chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cho 1.413 người; làm mới, sửa chữa và nâng cấp 6 ngôi nhà tình nghĩa với tổng kinh phí là 60 triệu đồng cho các đối tượng là thương binh, gia đình liệt sĩ ở các xã Giao An, Giao Thiện, Tam Văn, Yên Thắng và Thị trấn. Năm 2003, đầu tư vốn cho chương trình giải quyết việc làm đạt 460.463 triệu đồng cho 28 dự án; giải quyết việc làm ổn định cho 326 lao động; phối hợp với các ngành, các cấp làm mới, sửa chữa và nâng cấp được 6 ngôi nhà tình nghĩa và nhà đại đoàn kết với tổng kinh phí 91.500 triệu đồng cho các đối tượng là thương binh, gia đình liệt sĩ, nhiễm chất độc da cam ở thị trấn và các xã Quang Hiến, Tam Văn, Tân Phúc…

Về công tác xóa đói giảm nghèo:  Tích cực phát động phong trào nhân dân tham gia đóng góp các loại quỹ giúp đỡ nhau khắc phục khó khăn vươn lên trong cuộc sống, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, từng bước ổn định đời sống nhân dân. Năm 2001, toàn huyện có 3.902 hộ đói nghèo (theo tiêu chí mới), chiếm tỷ lệ 46,77%. Năm 2002, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 40,54%. Thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TU, ngày 13 - 10 - 2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về cuộc vận động toàn dân hỗ trợ giúp đỡ người nghèo chưa có nhà ở, đang ở nhà tạm bợ, dột nát và ổn định đời sống đồng bào sinh sống trên sông, toàn huyện đã làm được 445 căn nhà cho người nghèo, góp phần giúp đỡ nhân dân các dân tộc trong huyện sớm thoát khỏi tình trạng đói nghèo và lạc hậu. Đây là thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo của Huyện ủy, sự cố gắng lớn của nhân dân các dân tộc trong huyện trong việc giúp đỡ nhân dân các dân tộc phát triển kinh tế gia đình. Do đó, năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo đói giảm xuống còn 30,4%. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện là 27% (theo tiêu chí cũ) và 53,63% (theo tiêu chí mới), tăng hơn so với năm 2001 là 6,86%.

Về quốc phòng - an ninh  

Để triển khai hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới, hàng năm Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành nghị quyết về quốc phòng - an ninh. Do đó, công tác quốc phòng - an ninh đạt được những kết quả toàn diện.

Về quốc phòng:  Chủ động, bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, ngăn ngừa, đấu tranh, xử lý các vụ việc xảy ra tại cơ sở; xây dựng phương án phòng thủ, kế hoạch tác chiến, thường xuyên làm tốt công tác huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên, phát huy được sức mạnh hoạt động của cụm tuyến an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, giữ vững an ninh biên giới, an ninh nội địa, tạo thế ổn định, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế.

Trong nhiệm kỳ (2001 - 2005), tổ chức tốt việc huấn luyện dân quân tự vệ, tổ chức thành công các cuộc diễn tập quân sự: LC-01 (năm 2001), LC-CX-02 (năm 2002), LC-CX-03 (năm 2003), LC-CX-04 (năm 2004). Các chế độ trực chỉ huy, trực chiến được duy trì thường xuyên, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới, an ninh nội địa. Năm 2004, tổ chức tập huấn bồi dưỡng kiến thức cơ bản về quốc phòng cho cán bộ chủ chốt cấp xã, công tác tuyển quân đạt chỉ tiêu cả về số lượng và chất lượng; làm tốt công tác đón nhận quân nhân hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương. Năm 2005, thành lập Ban Chỉ đạo Phòng không nhân dân từ huyện đến các xã trọng điểm; hoàn thành việc tổng kết chính sách 47 và hoàn thành công tác giáo dục quốc phòng cho các đối tượng 3 là 106/153 lượt người, đối tượng 4 là 412/489 lượt người, đối tượng 5 là 1.503/1.667 lượt người.

Trước hiện tượng truyền đạo trái phép của một số phần tử phản động, tháng 5 năm 2003, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Thanh Hóa đã chỉ đạo thành lập Đồn Biên phòng 503 đặt tại Lang Chánh. Do đó, cán bộ, chiến sĩ đồn đã tích cực phối hợp với chính quyền, lực lượng vũ trang, nhân dân các xã khu vực biên giới bảo vệ tốt địa bàn, góp phần ngăn chặn kịp thời hiện tượng truyền đạo trái phép.

Về an ninh:  Thường xuyên giữ vững tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo thế an ninh nhân dân vững mạnh, phát động toàn dân tham gia truy quét các loại tội phạm, phòng chống tệ nạn xã hội, làm tốt công tác cảm hóa giáo dục, quản lý những người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư và gia đình. Chủ động phát hiện, nắm bắt tình hình, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở. Đảm bảo an ninh nông thôn, không để các vụ việc phức tạp, mất ổn định xảy ra. Năm 2001, huyện đã chỉ đạo việc tổ chức giao ban với các bản của nước bạn Lào với tinh thần hữu nghị và hợp tác. Năm 2004, các lực lượng an ninh đã bảo vệ an toàn cho cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2004 - 2009. Năm 2005, lực lượng công an đã bảo vệ thành công Đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2005 - 2010. Việc phát huy dân chủ, đấu tranh phòng chống tội phạm được chú trọng. Kỷ cương trong các cơ quan Nhà nước và trong đời sống xã hội từng bước được chấn chỉnh.

Trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

Về công tác chính trị tư tưởng:  Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, triển khai kịp thời các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đến với cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức lý luận, tạo sự thống nhất trong Đảng và kịp thời đấu tranh phê phán các quan điểm, tư tưởng lệch lạc sai trái với các quy định, nguyên tắc của Điều lệ Đảng; xây dựng lối sống trong sạch, lành mạnh trong cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy đảng, nhất là Ban Thường vụ Huyện ủy đã duy trì chế độ sinh hoạt nền nếp, khoa học; chủ động nghiên cứu, đề ra những nghị quyết, quyết định uốn nắn, chỉ đạo mọi hoạt động của cơ sở Đảng đúng hướng và kịp thời. Trong sinh hoạt, nguyên tắc tập trung dân chủ được đề cao, nhờ đó đã phát huy được trí tuệ và sự đoàn kết thống nhất của tập thể, hạn chế thiếu sót, khuyết điểm.

Trong 4 năm (2001 - 2004), Huyện ủy đã phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở 01 lớp Trung cấp lý luận tại chức cho 65 học viên, 01 lớp Trung cấp quản lý cho 83 cán bộ và mở hàng chục lớp bồi dưỡng tại huyện. Mở các lớp cảm tình Đảng cho 600 quần chúng ưu tú, lớp bồi dưỡng lý luận cơ sở cho trên 500 đảng viên mới, lớp bồi dưỡng cấp ủy viên, bí thư chi bộ cho 230 đồng chí; lớp công tác dân vận, tôn giáo, dân tộc cho 652 đồng chí, bồi dưỡng cộng tác viên 1.404 lượt người…; cử hàng trăm cán bộ, đảng viên đi học ở các trường của tỉnh và Trung ương.

Về công tác xây dựng tổ chức bộ máy, cán bộ:  Phát huy vai trò lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng trong công tác tổ chức cán bộ, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo đúng nội dung Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, kiện toàn hệ thống tổ chức gắn liền với việc kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ hành chính Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội. Thực hiện tốt đề án sắp xếp bộ máy và biên chế theo Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII), làm tốt quy trình đề bạt và sử dụng cán bộ. Trong nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã họp và xây dựng quy hoạch cán bộ cho giai đoạn 2001 - 2005, 2005 - 2010, đảm bảo một chức danh quy hoạch từ 2 - 3 đồng chí. Bổ nhiệm mới theo quy hoạch 9 đồng chí trưởng, phó ban, phòng cấp huyện. Riêng năm 2004, đã làm quy trình bầu chức danh bí thư và phó bí thư Huyện ủy, bổ nhiệm lại 9 cán bộ lãnh đạo. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đổi mới nội dung sinh hoạt được quán triệt đến tận cơ sở.

Hằng năm, các cấp ủy Đảng thường xuyên quan tâm, chăm lo đến công tác phát triển, quản lý đảng viên, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thực sự trong sạch vững mạnh toàn diện. Từ năm 2001 - 2004, toàn huyện đã kết nạp được 417 đảng viên mới (trong đó, năm 2004 kết nạp được 135 đảng viên). Năm 2004, tiến hành 3 đợt đổi thẻ đảng viên cho 1.240 đồng chí, góp phần rà soát số lượng và nâng cao chất lượng đảng viên trong toàn Đảng bộ huyện. Đã kết hợp chặt chẽ trong công tác xây dựng Đảng, thực hiện đúng quy chế làm việc của cấp ủy, đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo sự lãnh đạo tập trung, thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị. Vì vậy, tỷ lệ đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tăng lên, tỷ lệ đảng viên yếu kém giảm. Tỷ lệ đảng bộ, chi bộ trực thuộc Huyện ủy đạt trong sạch vững mạnh ngày càng tăng. Chỉ tính riêng năm 2003, đã có 65% Đảng bộ, chi bộ đạt trong sạch vững mạnh, không có đảng viên yếu kém.

Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng:  Thông qua kiểm tra đã kịp thời uốn nắn những lệch lạc trong công tác tư tưởng, những biểu hiện sai trái vi phạm của đội ngũ cán bộ, đảng viên; giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức Đảng và đảng viên. Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của cán bộ làm công tác kiểm tra. Xử lý nghiêm minh các vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm chính sách của Nhà nước. Do đó, việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước triệt để. Những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, buông lỏng kỷ luật Đảng được kịp thời phát hiện và xử lý. Trong 5 năm (2001 - 2005), Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy đã kỷ luật bằng các hình thức gần 40 trường hợp đảng viên vi phạm (trong đó, tiến hành khai trừ ra khỏi Đảng 19 đảng viên).

Việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo có nhiều chuyển biến rõ rệt, nội dung đơn thư tập trung vào lĩnh vực đất đai, kết quả xét xử của tòa án, chế độ chính sách đối với đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, vi phạm trong lĩnh vực kinh tế, đền bù giải phóng mặt bằng. Hoạt động của các cơ quan tư pháp tiếp tục được đổi mới: Các ngành trong khối nội chính phối hợp hoạt động và chủ động trong thanh tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án đảm bảo đúng pháp luật, góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân. Do làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nên các loại án thụ lý đều giảm, trong đó án hình sự giảm 36% (4/11 vụ); án dân sự giảm 86% (13/15 vụ); phạm pháp hình sự được kiềm chế, trật tự an toàn giao thông có bước chuyển biến tích cực.

Công tác Dân vận  được củng cố, tăng cường từ huyện đến cơ sở, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động thực hiện chương trình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; phát huy vai trò làm chủ của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; tăng cường kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, đề án của cấp ủy. Qua đó, các cấp ủy đảng đã nắm được tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu chính đáng, những bức xúc của nhân dân, góp phần hạn chế tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp.

Hoạt động của Hội đồng nhân dân:  Nhiệm kỳ 1999 - 2004, có 270 đại biểu HĐND 2 cấp huyện và xã, thị trấn được bầu (trong đó, HĐND huyện là 25 đại biểu, HĐND xã, thị trấn là 245 đại biểu). Toàn huyện có 62 tổ đại biểu HĐND (trong đó, HĐND huyện có 5 tổ, HĐND xã có 57 tổ). Các tổ đại biểu HĐND đã duy trì được hoạt động, thực hiện tốt các chương trình công tác của tổ đề ra, nhiều tổ đã gắn kết được hoạt động của tổ đại biểu với hoạt động cụm tuyến an toàn làm chủ, xây dựng địa bàn trong sạch vững mạnh ở từng cơ sở như các tổ: Yên Khương, Yên Thắng, Lâm Phú, Quang Hiến, Tân Phúc, Tam Văn. Trong nhiệm kỳ, HĐND ở 2 cấp đã tổ chức được 125 kỳ họp thường niên. Việc tổ chức các kỳ họp của HĐND đều đảm bảo theo quy định của luật định, các kỳ họp đều có sự chuẩn bị chu đáo, tổ chức có chất lượng cao theo nội dung chương trình và kế hoạch đề ra. Trong quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết, Thường trực HĐND huyện đã phối hợp chặt chẽ với các ban, các tổ đại biểu và đại biểu HĐND thực hiện tốt chức năng kiểm tra, giám sát và báo cáo kết quả định kỳ với HĐND.

Ủy ban nhân dân  các cấp đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo mô hình một cửa, tạo được chuyển biến trong việc giải quyết mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước với công dân, tổ chức, doanh nghiệp và nhà đầu tư. Ủy ban nhân dân huyện được sắp xếp thu gọn đầu mối, chức năng, nhiệm vụ được xác định và phân cấp rõ hơn. Chính quyền cơ sở được kiện toàn đủ chức danh theo luật định; Ủy ban nhân dân huyện triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo điều hành ngày càng hiệu quả. Nghị quyết của cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân được Ủy ban nhân dân huyện cụ thể hóa thành các đề án, chương trình công tác. Chỉ tính riêng năm 2003, UBND huyện đã họp 11 phiên thường kỳ và 1 phiên đột xuất về vấn đề dân di cư tự do ở lòng hồ Cửa Đạt (Thường Xuân) sang huyện Lang Chánh; chấn chỉnh lại công tác quản lý điện và xây dựng trạm biến áp số 3 để ổn định nguồn điện sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân khu vực Thị trấn.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội  tiếp tục được củng cố, kiện toàn, từng bước đổi mới về nội dung, hình thức hoạt động phù hợp với tình hình. Các phong trào thi đua yêu nước tiếp tục phát triển sâu rộng, đem lại hiệu quả chính trị, kinh tế - xã hội to lớn. Thông qua các phong trào thi đua, các tổ chức chính trị của Đảng đã tập hợp, vận động, tổ chức giáo dục đông đảo thành viên tích cực thi đua lao động sản xuất, học tập, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, làm giàu cho gia đình, cho quê hương.

Lang Chánh có 7 km đường biên giới chung với nước bạn Lào, địa hình rừng núi phức tạp. Do đó, Mặt trận Tổ quốc luôn phối hợp với ngành công an triển khai cuộc vận động “Toàn dân tham gia, phòng ngừa, phát hiện tố giác tội phạm, quản lý, cảm hóa giáo dục những người vi phạm pháp luật tại gia đình và cộng đồng dân cư”; thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, góp phần cụ thể hóa các nội dung, chương trình phát triển đời sống văn hóa trong cộng đồng dân cư theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng; vận động nhân dân phát huy dân chủ, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, chính quyền vững mạnh. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã phát huy vai trò năng động sáng tạo, xung kích trong phong trào “Thanh niên tình nguyện đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Liên đoàn Lao động phát động công nhân viên chức tham gia phong trào “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”. Hội Liên hiệp Phụ nữ triển khai thực hiện tốt 6 chương trình trọng tâm, nổi bật là phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Hội Cựu chiến binh phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng. Hội Nông dân tổ chức 3 phong trào thi đua yêu nước giúp nhau xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn… Tất cả thực hiện theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, góp phần tạo sự chuyển biến về kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX của Đảng bộ huyện, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc huyện Lang Chánh đã đạt được nhiều thành tựu mới, quan trọng trên các lĩnh vực. Tình hình chính trị ổn định, kinh tế phát triển, văn hóa - xã hội có bước tiến mới, quốc phòng - an ninh được đảm bảo, trật tự an toàn xã hội được tăng cường. Đó là điều kiện để Đảng bộ, nhân dân Lang Chánh tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và vững chắc sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh có nhiều thuận lợi, thời cơ đan xen khó khăn, thách thức.

Mười năm thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước, trong tỉnh có nhiều biến động, thuận lợi đan xen nguy cơ và thách thức, Đảng bộ và nhân dân huyện Lang Chánh vẫn vững vàng, quyết tâm tranh thủ thời cơ thuận lợi, khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIV, XV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII, XIX và đạt được những thành tựu quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Cùng với cả nước nói chung, tỉnh Thanh Hóa nói riêng, Đảng bộ huyện đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong huyện vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng Lang Chánh thành một huyện có nền kinh tế ổn định và phát triển trong số 11 huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa. Điều đó được minh chứng như sau: cơ cấu kinh tế được chuyển đổi theo hướng hạ thấp tỷ lệ nông nghiệp trong GDP, tăng nhanh tỷ lệ lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ; hình thành được cơ sở sản xuất liên doanh, chế biến sản phẩm từ cây luồng,.. tạo điều kiện thuận lợi phát triển nền kinh tế hàng hóa; từng bước xóa bỏ chênh lệch về văn hóa giữa các vùng miền, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Hoàn thành phổ cập Tiểu học vào năm 1996, phổ cập Trung học cơ sở vào năm 2004, thể hiện bước tiến vượt bậc của ngành giáo dục nói chung và của huyện Lang Chánh nói riêng nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước. Các chính sách an sinh xã hội được quan tâm thực hiện đúng đối tượng, góp phần tri ân đối với những gia đình có công với cách mạng,… Quốc phòng - an ninh luôn được giữ vững, chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ và các tổ chức cơ sở Đảng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ và nhân dân huyện Lang Chánh vẫn bộc lộ một số hạn chế, như: Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, sản xuất chủ yếu dựa vào thiên nhiên, trình độ sản xuất, ý thức sản xuất, hàng hóa của nhân dân còn chậm đổi mới. Việc tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch đến cơ sở chưa triệt để, chưa khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của huyện. Đồng thời, do năng lực, trình độ, kiến thức lãnh đạo, chỉ đạo của đội ngũ cán bộ đảng viên trong Đảng bộ còn thiếu nhiệt tình, năng động, còn tư tưởng bảo thủ, chủ quan, trông chờ, ỷ lại….

Vượt lên trên những hạn chế, khó khăn, Đảng bộ huyện Lang Chánh tiếp tục lãnh đạo nhân dân huyện nhà tiến lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần xây dựng đất nước và quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Phần 8: Sẽ tiếp tục được cập nhật

CÔNG KHAI TIẾN ĐỘ GIẢI QUYẾT TTHC

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1

BẢN QUYỀN SỬ DỤNG THUỘC HUYỆN LANG CHÁNH - THANH HÓA

Trưởng ban biên tập: Hoàng Văn Thanh - Chủ tịch UBND huyện Lang Chánh

Điện thoại:(02373)874.002; Fax: (02373)874.002; Email: langchanh@thanhhoa.gov.vn

Ghi rõ nguồn tin Thanh Hóa Portal hoặc http://langchanh.thanhhoa.gov.vn khi phát hành lại các thông tin từ Cổng thông tin điện tử.

Chung nhan Tin Nhiem Mang